Ô nhiễm vi sinh vật là gì? Các công bố khoa học về Ô nhiễm vi sinh vật
Ô nhiễm vi sinh vật là sự hiện diện của vi sinh vật, chẳng hạn như vi khuẩn, virus, nấm mốc và các loại vi sinh vật khác, trong môi trường nước, không khí hoặc ...
Ô nhiễm vi sinh vật là sự hiện diện của vi sinh vật, chẳng hạn như vi khuẩn, virus, nấm mốc và các loại vi sinh vật khác, trong môi trường nước, không khí hoặc đất đai với mật độ và tỉ lệ cao hơn so với môi trường tự nhiên. Sự ô nhiễm vi sinh vật có thể gây hại cho sức khỏe con người, động vật và môi trường sinh thái.
Ô nhiễm vi sinh vật có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân, bao gồm xả thải từ các nhà máy xử lý nước thải, rò rỉ từ các hệ thống cấp nước sạch, xử lý rác thải không đúng cách, và cả nguồn nước bị ô nhiễm từ các hoạt động nông nghiệp và công nghiệp.
Hậu quả của ô nhiễm vi sinh vật có thể làm suy giảm chất lượng nước, gây ra dị ứng và các bệnh nhiễm trùng, và ảnh hưởng đến sự sinh sản của động vật trong môi trường nước.
Để ngăn chặn và giảm thiểu ô nhiễm vi sinh vật, cần thiết phải có các biện pháp kiểm soát hiệu quả trong việc xử lý nước thải, quản lý rác thải, và giám sát độ dơi của nguồn nước.
Thêm vào thông tin trước đó, ô nhiễm vi sinh vật cũng có thể phát tán và lan truyền qua nhiều cách khác nhau như qua tiếp xúc với người bệnh, qua thức ăn hoặc nước uống nhiễm bẩn, hoặc thông qua tiếp xúc với môi trường ô nhiễm như nước mưa hoặc đất đai.
Vi sinh vật có thể gây ra các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng như viêm hach răng, tiêu chảy, viêm phổi và các bệnh nhiễm trùng khác.
Để ngăn chặn ô nhiễm vi sinh vật, việc thực hiện vệ sinh cá nhân và vệ sinh môi trường rất quan trọng. Bên cạnh đó, việc xử lý và xử lý nước thải từ các nguồn ô nhiễm cũng rất cần thiết để giảm thiểu rủi ro vi sinh vật gây hại đối với sức khỏe con người và môi trường.
Thêm vào thông tin trước đó, ô nhiễm vi sinh vật cũng có thể dẫn đến sự suy giảm đa dạng sinh học và độc hại cho hệ sinh thái nước.
Các biện pháp phòng chống ô nhiễm vi sinh vật bao gồm việc sử dụng hệ thống xử lý nước thải hiệu quả, kiểm soát vi sinh vật trong nông nghiệp và chăn nuôi, thực hiện các biện pháp vệ sinh toàn diện, đảm bảo an toàn thực phẩm và nước uống, cũng như giám sát và kiểm tra chất lượng môi trường địa phương để phát hiện và ngăn chặn sự ô nhiễm từ các nguồn khác nhau.
Một số biện pháp cụ thể để ngăn chặn ô nhiễm vi sinh vật có thể bao gồm:
1. Xử lý nước thải hiệu quả: Sử dụng các hệ thống xử lý nước thải để loại bỏ vi sinh vật và các chất ô nhiễm khác trước khi nước được xả ra môi trường.
2. Quản lý rác thải: Đảm bảo việc xử lý rác thải đúng cách để ngăn chặn vi sinh vật gây hại lan truyền thông qua rác thải.
3. Kiểm soát trong nông nghiệp: Sử dụng phân bón và hóa chất bảo vệ thực vật một cách hợp lý để giảm thiểu vi sinh vật gây hại trong nông nghiệp.
4. Giám sát và kiểm tra chất lượng môi trường: Thực hiện kiểm tra định kỳ về chất lượng nước và đất đai để phát hiện kịp thời sự ô nhiễm và ngăn chặn nó lan truyền.
5. Tăng cường giáo dục và nhận thức cộng đồng: Giáo dục cộng đồng về ô nhiễm vi sinh vật và cách ngăn chặn nó, giúp mọi người có ý thức bảo vệ môi trường và sức khỏe cá nhân.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "ô nhiễm vi sinh vật":
Sự phục hồi quy mô lớn của các bộ genome từ các mẫu cô lập, tế bào đơn lẻ và dữ liệu metagenome đã trở nên khả thi nhờ những tiến bộ trong các phương pháp tính toán và giảm đáng kể chi phí giải trình tự. Mặc dù sự mở rộng này của các bộ genome nháp đang cung cấp thông tin chính yếu về tính đa dạng tiến hóa và chức năng của đời sống vi sinh vật, việc hoàn thiện tất cả các bộ reference genome hiện có đã trở thành không khả thi. Việc đưa ra các suy luận sinh học chính xác từ các genome nháp đòi hỏi ước lượng chính xác mức độ hoàn chỉnh và ô nhiễm của chúng. Các phương pháp hiện tại để đánh giá chất lượng genome là dựa theo cách riêng và thường sử dụng một số lượng hạn chế các gene “marker” được bảo tồn trên tất cả các genome vi khuẩn hoặc vi khuẩn cổ. Tại đây, chúng tôi giới thiệu CheckM, một phương pháp tự động để đánh giá chất lượng của một genome sử dụng một tập hợp rộng hơn các gene marker đặc thù cho vị trí của một genome trong cây reference genome và thông tin về vị trí đồng bộ của các gene này. Chúng tôi chứng minh hiệu quả của CheckM bằng cách sử dụng dữ liệu tổng hợp và nhiều loại genome chiết xuất từ mẫu cô lập, tế bào đơn lẻ và metagenome. CheckM được chứng minh là cung cấp các ước lượng chính xác về mức độ hoàn chỉnh và ô nhiễm của genome và vượt trội so với các phương pháp hiện có. Sử dụng CheckM, chúng tôi xác định một loạt các lỗi đang ảnh hưởng đến các genome mẫu cô lập công khai hiện có và chứng minh rằng các genome được thu nhận từ tế bào đơn lẻ và dữ liệu metagenome có sự khác biệt đáng kể về chất lượng. Để tạo điều kiện sử dụng các genome nháp, chúng tôi đề xuất một tiêu chí khách quan về chất lượng genome có thể được sử dụng để lựa chọn các genome phù hợp cho các phân tích tập trung vào gene và genome của các cộng đồng vi sinh vật.
Các nguyên tố nặng, tùy thuộc vào trạng thái oxi hóa của chúng, có thể phản ứng mạnh và do đó, độc hại cho hầu hết các sinh vật. Chúng được sản xuất từ một loạt các nguồn gốc nhân tạo đang mở rộng, cho thấy vai trò ngày càng quan trọng của dạng ô nhiễm này. Tác động độc hại của các nguyên tố nặng dường như liên quan đến việc sản xuất các loại oxy phản ứng (ROS) và tình trạng redox không cân bằng của tế bào. Tảo phản ứng với các nguyên tố nặng thông qua việc kích thích một số chất chống oxy hóa khác nhau, bao gồm các enzym đa dạng như superoxide dismutase, catalase, glutathione peroxidase và ascorbate peroxidase, cũng như tổng hợp các hợp chất có trọng lượng phân tử thấp như carotenoids và glutathione. Ở các mức độ ô nhiễm kim loại cao, hoặc cấp tính, tế bào tảo bị tổn thương do mức độ ROS vượt qua khả năng ứng phó của tế bào. Ở các mức độ thấp hơn, hoặc mãn tính, tảo tích lũy các nguyên tố nặng và có thể truyền chúng sang các sinh vật ở các bậc thức ăn khác như động vật nhuyễn thể, giáp xác và cá. Chúng tôi đánh giá ở đây các bằng chứng liên kết giữa sự tích lũy kim loại, độc tính tế bào và sự tạo ra ROS trong các môi trường thủy sinh.
Vi sinh vật có khả năng canh tác từ 20 tổn thương nội nha khó chữa (9 tổn thương có áp xe và 11 tổn thương không có áp xe) đã được xác định. Trong đó,
Nhiễm trùng huyết (sepsis) gần đây đã được định nghĩa lại là một sự rối loạn chức năng cơ quan đe dọa tính mạng do phản ứng của cơ thể không được điều hòa đối với nhiễm trùng. Với định nghĩa lại này (Sepsis-3), các đặc điểm lâm sàng và vi sinh vật học của bệnh nhân mắc nhiễm trùng huyết có thể khác với những bệnh nhân đáp ứng định nghĩa trước đó (Sepsis-2).
Mô tả sự khác biệt trong các đặc điểm lâm sàng và vi sinh vật học của các lần mắc nhiễm trùng huyết giữa Sepsis-3 và Sepsis-2. Mục tiêu thứ cấp là so sánh kết quả nuôi cấy máu giữa các lần mắc đáp ứng tiêu chí Sepsis-3 và Sepsis-2, tương ứng.
Một thiết kế nghiên cứu tiến cứu đã được sử dụng để bao gồm các bệnh nhân có nghi ngờ lâm sàng về nhiễm trùng huyết ở phòng cấp cứu. Sáu bình nuôi cấy máu đã được thu thập từ mỗi bệnh nhân. Nuôi cấy máu được mô tả là có sự phát triển liên quan lâm sàng, phát triển ô nhiễm, hoặc không có sự phát triển. Dữ liệu lâm sàng và phòng thí nghiệm được thu thập từ hồ sơ y tế và hệ thống thông tin phòng thí nghiệm.
Phân tích bao gồm 514 lần mắc. Có 357/514 (79.5%) lần mắc Sepsis-3 và 411/514 (80.0%) lần mắc Sepsis-2. Tổng cộng, 341/514 (66.3%) lần mắc đáp ứng cả hai tiêu chí Sepsis-3 và Sepsis-2. Nuôi cấy máu dương tính với sự phát triển liên quan lâm sàng ở 130/357 (36.1%) và 145/411 (35.3%) lần mắc thuộc Sepsis-3 và Sepsis-2, tương ứng. Các đặc điểm lâm sàng và vi sinh vật học khác không khác biệt giữa Sepsis-3 và Sepsis-2.
Một tỷ lệ cao bệnh nhân được bao gồm qua hệ thống cảnh báo nhiễm trùng huyết đã đáp ứng cả hai tiêu chí Sepsis-3 và Sepsis-2. Hiệu suất của các nuôi cấy máu trong phát hiện vi sinh vật là kém và tương tự nhau ở bệnh nhân Sepsis-3 và Sepsis-2.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5