Ô nhiễm vi sinh vật là gì? Các công bố khoa học về Ô nhiễm vi sinh vật

Ô nhiễm vi sinh vật là sự hiện diện của vi sinh vật, chẳng hạn như vi khuẩn, virus, nấm mốc và các loại vi sinh vật khác, trong môi trường nước, không khí hoặc ...

Ô nhiễm vi sinh vật là sự hiện diện của vi sinh vật, chẳng hạn như vi khuẩn, virus, nấm mốc và các loại vi sinh vật khác, trong môi trường nước, không khí hoặc đất đai với mật độ và tỉ lệ cao hơn so với môi trường tự nhiên. Sự ô nhiễm vi sinh vật có thể gây hại cho sức khỏe con người, động vật và môi trường sinh thái.
Ô nhiễm vi sinh vật có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân, bao gồm xả thải từ các nhà máy xử lý nước thải, rò rỉ từ các hệ thống cấp nước sạch, xử lý rác thải không đúng cách, và cả nguồn nước bị ô nhiễm từ các hoạt động nông nghiệp và công nghiệp.

Hậu quả của ô nhiễm vi sinh vật có thể làm suy giảm chất lượng nước, gây ra dị ứng và các bệnh nhiễm trùng, và ảnh hưởng đến sự sinh sản của động vật trong môi trường nước.

Để ngăn chặn và giảm thiểu ô nhiễm vi sinh vật, cần thiết phải có các biện pháp kiểm soát hiệu quả trong việc xử lý nước thải, quản lý rác thải, và giám sát độ dơi của nguồn nước.
Thêm vào thông tin trước đó, ô nhiễm vi sinh vật cũng có thể phát tán và lan truyền qua nhiều cách khác nhau như qua tiếp xúc với người bệnh, qua thức ăn hoặc nước uống nhiễm bẩn, hoặc thông qua tiếp xúc với môi trường ô nhiễm như nước mưa hoặc đất đai.

Vi sinh vật có thể gây ra các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng như viêm hach răng, tiêu chảy, viêm phổi và các bệnh nhiễm trùng khác.

Để ngăn chặn ô nhiễm vi sinh vật, việc thực hiện vệ sinh cá nhân và vệ sinh môi trường rất quan trọng. Bên cạnh đó, việc xử lý và xử lý nước thải từ các nguồn ô nhiễm cũng rất cần thiết để giảm thiểu rủi ro vi sinh vật gây hại đối với sức khỏe con người và môi trường.
Thêm vào thông tin trước đó, ô nhiễm vi sinh vật cũng có thể dẫn đến sự suy giảm đa dạng sinh học và độc hại cho hệ sinh thái nước.

Các biện pháp phòng chống ô nhiễm vi sinh vật bao gồm việc sử dụng hệ thống xử lý nước thải hiệu quả, kiểm soát vi sinh vật trong nông nghiệp và chăn nuôi, thực hiện các biện pháp vệ sinh toàn diện, đảm bảo an toàn thực phẩm và nước uống, cũng như giám sát và kiểm tra chất lượng môi trường địa phương để phát hiện và ngăn chặn sự ô nhiễm từ các nguồn khác nhau.
Một số biện pháp cụ thể để ngăn chặn ô nhiễm vi sinh vật có thể bao gồm:

1. Xử lý nước thải hiệu quả: Sử dụng các hệ thống xử lý nước thải để loại bỏ vi sinh vật và các chất ô nhiễm khác trước khi nước được xả ra môi trường.

2. Quản lý rác thải: Đảm bảo việc xử lý rác thải đúng cách để ngăn chặn vi sinh vật gây hại lan truyền thông qua rác thải.

3. Kiểm soát trong nông nghiệp: Sử dụng phân bón và hóa chất bảo vệ thực vật một cách hợp lý để giảm thiểu vi sinh vật gây hại trong nông nghiệp.

4. Giám sát và kiểm tra chất lượng môi trường: Thực hiện kiểm tra định kỳ về chất lượng nước và đất đai để phát hiện kịp thời sự ô nhiễm và ngăn chặn nó lan truyền.

5. Tăng cường giáo dục và nhận thức cộng đồng: Giáo dục cộng đồng về ô nhiễm vi sinh vật và cách ngăn chặn nó, giúp mọi người có ý thức bảo vệ môi trường và sức khỏe cá nhân.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "ô nhiễm vi sinh vật":

CheckM: đánh giá chất lượng của bộ genome vi sinh vật được phục hồi từ các mẫu cô lập, tế bào đơn lẻ và metagenome
Genome Research - Tập 25 Số 7 - Trang 1043-1055 - 2015
Sự phục hồi quy mô lớn của các bộ genome từ các mẫu cô lập, tế bào đơn lẻ và dữ liệu metagenome đã trở nên khả thi nhờ những tiến bộ trong các phương pháp tính toán và giảm đáng kể chi phí giải trình tự. Mặc dù sự mở rộng này của các bộ genome nháp đang cung cấp thông tin chính yếu về tính đa dạng tiến hóa và chức năng của đời sống vi sinh vật, việc hoàn thiện tất cả các bộ reference genome hiện có đã trở thành không khả thi. Việc đưa ra các suy luận sinh học chính xác từ các genome nháp đòi hỏi ước lượng chính xác mức độ hoàn chỉnh và ô nhiễm của chúng. Các phương pháp hiện tại để đánh giá chất lượng genome là dựa theo cách riêng và thường sử dụng một số lượng hạn chế các gene “marker” được bảo tồn trên tất cả các genome vi khuẩn hoặc vi khuẩn cổ. Tại đây, chúng tôi giới thiệu CheckM, một phương pháp tự động để đánh giá chất lượng của một genome sử dụng một tập hợp rộng hơn các gene marker đặc thù cho vị trí của một genome trong cây reference genome và thông tin về vị trí đồng bộ của các gene này. Chúng tôi chứng minh hiệu quả của CheckM bằng cách sử dụng dữ liệu tổng hợp và nhiều loại genome chiết xuất từ mẫu cô lập, tế bào đơn lẻ và metagenome. CheckM được chứng minh là cung cấp các ước lượng chính xác về mức độ hoàn chỉnh và ô nhiễm của genome và vượt trội so với các phương pháp hiện có. Sử dụng CheckM, chúng tôi xác định một loạt các lỗi đang ảnh hưởng đến các genome mẫu cô lập công khai hiện có và chứng minh rằng các genome được thu nhận từ tế bào đơn lẻ và dữ liệu metagenome có sự khác biệt đáng kể về chất lượng. Để tạo điều kiện sử dụng các genome nháp, chúng tôi đề xuất một tiêu chí khách quan về chất lượng genome có thể được sử dụng để lựa chọn các genome phù hợp cho các phân tích tập trung vào gene và genome của các cộng đồng vi sinh vật.
#genome #CheckM #vi sinh vật #ô nhiễm #hoàn chỉnh #metagenome #tế bào đơn lẻ #phương pháp tự động
KHẢO SÁT TÁC NHÂN VI SINH VẬT GÂY BỆNH VIÊM NHIỄM SINH DỤC DƯỚI Ở PHỤ NỮ KHÁM PHỤ KHOA VÀ YẾU TỐ LIÊN QUAN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 517 Số 1 - 2022
Đặt vấn đề: Viêm nhiễm sinh dục dưới là một bệnh phụ khoa thường gặp có khả năng tái phát bệnh nhiều lần. Tuy không phải là bệnh cấp cứu gây tử vong ngay, nhưng bệnh lại gây ảnh hưởng đến sức khỏe, có thể dẫn đến tình trạng vô sinh, và một số biến chứng phụ khoa khác làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, đến công việc hàng ngày và tốn kém về kinh phí khám chữa bệnh. Mục tiêu: Nghiên cứu được thực hiện nhằm mô tả tình hình các vi sinh vật gây bệnh viêm nhiễm sinh dục dưới các đặc điểm dịch tễ cũng như các yếu tố liên quan đến bệnh. Phương pháp nghiên cứu: Với phương pháp cắt ngang mô tả 346 đối tượng khám phụ khoa, tại khoa khám bệnh A, bệnh viện Hùng Vương, Thành phố Hồ Chí Minh. Thông tin được thu thập bằng phiếu điều tra, sử dụng bảng câu hỏi và hồ sơ bệnh án, số liệu thu thập được xử lý và phân tích bằng phần mềm STATA. Kết quả: Viêm nhiễm sinh dục dưới chiếm 41,91%, trong đó nhóm vi nấm có tỷ lệ cao nhất (80,69%), nhóm vi khuẩn 14,48%, nhóm có tỷ lệ thấp nhất là ký sinh trùng (Trichomonas vaginalis) 4,83%. Đến khám bệnh phụ khoa đa số là phụ nữ <50 tuổi chiếm đến 88,44%, ≥50 tuổi (11,56%); sinh sống ở khu vực thành thị 62,43%, nông thôn chiếm 37,57%. Nguồn nước máy sinh hoạt chiếm tỷ lệ 74,83%; nguồn nước khác (25,14%). Các yếu tố liên quan bao gồm: ẩm ướt vùng kín, ngứa, đau rát âm đạo, rối loạn kinh nguyệt, sử dụng các biện pháp ngừa thai, sử dụng thực phẩm chức năng hỗ trợ tình dục, tiền sử viêm âm đạo, tiền sử phá thai. Kết luận: Nhìn chung, tỷ lệ mắc bệnh vẫn còn cao và nhiều yếu tố liên quan đến bệnh, vì vậy, cần phải tiếp tục tăng cường công tác giáo dục phòng bệnh.
#Bệnh phụ khoa #viêm nhiễm sinh dục dưới #vi sinh vật gây bệnh
THỰC TRẠNG ĐIỀU KIỆN AN TOÀN THỰC PHẨM CỦA CƠ SỞ SẢN XUẤT NƯỚC ĐÁ DÙNG LIỀN VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TẠI TỈNH QUẢNG BÌNH NĂM 2022
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 518 Số 2 - 2022
Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích tại các cơ sở sản xuất nước đá dùng liền tại tỉnh Quảng Bình năm 2022 nhằm mô tả thực trạng điều kiện an toàn thực phẩm (ATTP) và một số yếu tố ảnh hưởng. Kết quả cho thấy có tới 31% mẫu nước đá dùng liền (NĐDL) bị nhiễm vi sinh vật và 69% nước đá dùng liền không bị nhiễm vi sinh vật; 40,5% cơ sở không đạt yêu cầu điều kiện ATTP, trong đó cơ sở không đạt yêu cầu về bao bì chứa đựng NĐDL là cao nhất với 35,7%; 26,2% cơ sở không đạt về điều kiện con người; 7,1% cơ sở không đạt điều kiện an ATTP trang thiết bị dụng cụ; 4,8% không đạt điều kiện ATTP nhà xưởng cơ sở sản xuất (CSSX). Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ ô nhiễm vi sinh vật trong NĐDL và các yếu tố điều kiện ATTP của cơ sở. Những CSSX không đạt yêu cầu ATTP về điều kiện chung, điều kiện nhà xưởng, điều kiện người sản xuất, điều kiện bảo quản thực phẩm nguy cơ sản phẩm bị ô nhiễm vi sinh vật cao gấp từ 0,275 lần đến 30,375 lần so với những cơ sở đạt yêu cầu về ATTP các điều kiện này.
#Nước đá dùng liền #điều kiện an toàn thực phẩm #ô nhiễm vi sinh vật
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CAN THIỆP CỦA QUY TRÌNH GIẶT, SẤY TRONG VIỆC GIẢM MỨC ĐỘ Ô NHIỄM VI SINH VẬT TRÊN ĐỒ VẢI Y TẾ TẠI BỆNH VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC CẦN THƠ
Tạp chí Y Dược học Cần Thơ - Số 71 - Trang 103-109 - 2024
Đặt vấn đề: Quy trình xử lý đồ vải y tế trước khi tái sử dụng đóng vai trò then chốt trong việc kiểm soát và cắt đứt chuỗi lây truyền các tác nhân gây nhiễm khuẩn bệnh viện. Đánh giá hiệu quả của quy trình giặt, sấy trong việc làm giảm vi sinh vật trên đồ vải y tế mang lại ý nghĩa thiết thực, góp phần làm giảm tỉ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện. Mục tiêu nghiên cứu: 1) Xác định các loại vi sinh vật phân bố trên đồ vải thông thường và đồ vải phẫu thuật đang được sử dụng tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ; 2) Đánh giá hiệu quả can thiệp của quy trình giặt, sấy trong việc giảm mức độ ô nhiễm vi khuẩn trên đồ vải y tế. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 50 mẫu đồ vải y tế bao gồm đồ vải thông thường và đồ vải phẫu thuật được tiến hành lấy mẫu ở 3 giai đoạn: trước giặt, sau giặt và sau sấy. Các mẫu được nuôi cấy, phân lập và định danh vi khuẩn. Kết quả: 100% mẫu đồ vải y tế sau khi sử dụng có sự hiện diện của vi sinh vật, Staphylococcus species chiếm tỉ lệ cao nhất ở cả đồ vải thông thường (17,9%) và đồ vải phẫu thuật (23,3%), tỉ lệ thấp nhất ở đồ vải thông thường là Klebsiella pneumoniae (3,6%) và đồ vải phẫu thuật là Pseudomonas aeruginosa (3,3%). Quy trình giặt bằng nhiệt độ, hóa chất không thể loại bỏ hết vi sinh vật. Kết hợp quy trình giặt, sấy giúp loại bỏ hoàn toàn vi sinh vật. Kết luận: Quy trình giặt, sấy xử lý đồ vải y tế tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ đã loại bỏ 100% vi sinh vật dính trên đồ vải sau khi sử dụng (p < 0,05).
#Đồ vải y tế #vi sinh vật #giặt #sấy #nhiễm khuẩn bệnh viện
PHÁT HIỆN ĐỒNG NHIỄM VI SINH VẬT Ở TRẺ VIÊM PHỔI NẶNG MẮC PHẢI TẠI CỘNG ĐỒNG BẰNG REAL-TIME PCR
Đặt vấn đề: Từ trước đến nay, vi rút là nguyên nhân phổ biến nhất gây viêm phổi mắc phải tại cộng đồng (CAP- Community-acquired pneumonia) ở trẻ em. Tuy nhiên, đồng nhiễm vi sinh vật, đặc biệt vi khuẩn đang là vấn đề được các nhà lâm sàng quan tâm nhiều vì liên quan đến việc sử dụng kháng sinh. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ đồng nhiễm vi sinh vật và các tác nhân vi sinh ở trẻ mắc CAP nặng bằng kỹ thuật Real-time PCR. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. Nghiên cứu được thực hiện trên 239 trẻ bị viêm phổi nặng mắc phải tại cộng đồng nhập Bệnh viện Nhi đồng Cần Thơ từ tháng 03/2020 đến tháng 02/2021. Trẻ được phân tích bệnh phẩm dịch khí quản hút qua ngã mũi NTA (nasotracheal aspiration) bằng Real- time PCR tìm 70 tác nhân. Kết quả: Tỷ lệ phát hiện tác nhân qua Real-time PCR rất cao (93,6%). Đa số trẻ có tình trạng đồng nhiễm vi sinh vật (85%), trong đó, đồng nhiễm vi rút-vi khuẩn chiếm tỷ lệ cao nhất (67,5%), kế đến đồng nhiễm vi khuẩn-vi khuẩn (16,2%). Ba tác nhân vi khuẩn chính được phát hiện bằng Real-time PCR là Streptococcus pneumoniae, Haemophilus influenzae non- type b và Staphylococcus aureus kháng methicillin (MRSA). Kết luận: Tình trạng đồng nhiễm vi khuẩn ở trẻ viêm phổi nặng khá cao, nên điều trị sống còn đối với viêm phổi nặng là kháng sinh. Điều trị nên tập trung vào những loại kháng sinh đặc hiệu với ba vi khuẩn chính được phát hiện.
#Đồng nhiễm #vi khuẩn #viêm phổi mắc phải tại cộng đồng #trẻ em #Real-time PCR
ĐẶC ĐIỂM CĂN NGUYÊN VI SINH VẬT GÂY VIÊM MÀNG NÃO NHIỄM KHUẨN Ở TRẺ SƠ SINH TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Nhi khoa - Tập 17 Số 4 - Trang - 2024
Mục tiêu: Mô tả căn nguyên vi sinh vật gây viêm màng não nhiễm khuẩn ở trẻ sơ sinh điều trị tại Bệnh viện Nhi Trung ương. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả hồi cứu trên 42 bệnh án trẻ sơ sinh được chẩn đoán và điều trị VMNNK tại Trung tâm sơ sinh Bệnh viện Nhi Trung ương từ tháng 02/2019 – 01/2023. Kết quả: Chủng vi khuẩn Group B Streptococcus chiếm tỷ lệ cao nhất (73,4%), sau đó đến E. coli (13,3%). Các kháng sinh Aztreonma, Imipenem, Meropenem, Amikacin, Cefotaxime, Moxifloxacin, Vancomycin, Ertapenem, Cefepime còn nhạy 100% với các vi khuẩn được làm kháng sinh đồ. Các kháng Clindamycin, Erythromycine, Amoxicillin + Aicd clavulanic, Cefuroxime Axeti bị kháng với tỷ lệ rất cao (100,0%). Kháng sinh Cefazolin xuất hiện tình trạng kháng với tỷ lệ 50,0%. Gentamycine kháng thuốc với tỷ lệ là 40,0%. Piperacillin + Tazobactam, Cefoxitin và Ciprofloxacin đều kháng với tỷ lệ 33,3%. Kết luận: Các chủng vi khuẩn gây viêm màng não phổ biến là GBS (73,4%), E. coli (13,3%). Các kháng sinh Aztreonma, Imipenem, Meropenem, Amikacin, Cefotaxime, Moxifloxacin, Vancomycin, Ertapenem, Cefepime còn nhạy với các vi khuẩn gây viêm màng não ở trẻ sơ sinh.
#viêm màng não nhiễm khuẩn #trẻ sơ sinh #vi khuẩn #infectious meningitis # #newborns #Co-bacterial
Đánh giá tỷ lệ nhiễm vi sinh vật gây ngộ độc thực phẩm trên một số sản phẩm từ tinh bột thu thập tại phường Ea Tam, thành phố Buôn Ma Thuột
Tạp chí Khoa học Tây Nguyên - Tập 16 Số 56 - Trang - 2022
Nghiên cứu được thực hiện nhằm mục đích đánh giá tỷ lệ nhiễm một số vi sinh vật gây ngộ độc thực phẩm gồm tổng số vi khuẩn hiếu khí (TSVKHK), Coliforms, Escherichia coli, Staphyloccus aureus, Clostridium perfringens và tổng số nấm men, nấm mốc trong một số sản phẩm nguồn gốc từ tinh bột tại phường Ea Tam, thành phố Buôn Ma Thuột. Từ 105 mẫu thu thập và tiến hành kiểm tra, kết quả cho thấy tỷ lệ nhiễm TSVKHK, Coliforms, S. aureus, tổng nấm men, nấm mốc chiếm lần lượt là 89,52%, 20,95%, 20%, và 72,38% vượt so với tiêu chuẩn cho phép của Bộ Y tế (quyết định số 46/2007/QĐ-BYT). Trong các mẫu thu thập, tỷ lệ nhiễm TSVKHK (100%) và Coliforms (34,29%) cao nhất ở mẫu mỳ quảng, tỷ lệ nhiễm S. aureus (28,57%) và tổng nấm men, nấm mốc (80%) cao nhất ở mẫu bánh canh. Đặc biệt, 100% mẫu nghiên cứu không phát hiện thấy E. coli và Cl. perfringens. Kết quả thu nhận vừa góp phần phản ánh về tình trạng nhiễm vi sinh vật của một số mẫu thực phẩm có nguồn gốc từ tinh bột vừa là cơ sở để các cấp quản lý quan tâm, kiểm soát chặt chẽ hơn vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm.
#Coliforms #nấm men #nấm mốc #Staphyloccus aureus #tinh bột #tổng số vi khuẩn hiếu khí #molds #yeasts #total aerobic bacteria #starch #Staphylococcus aureus
Ô NHIỄM VI SINH VẬT TRONG SẢN PHẨM TỪ SỮA CHO PHỤ NỮ MANG THAI TẠI MỘT SỐ TỈNH/THÀNH PHỐ, 2020-2021
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 522 Số 1 - 2023
Mục tiêu: Xác định mức độ ô nhiễm một số tác nhân vi sinh vật trong sản phẩm từ sữa cho phụ nữ mang thai tại một số tỉnh/thành phố, năm 2020-2021. Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang, lấy mẫu chỉ điểm và xét nghiệm 4 chỉ tiêu vi sinh vật thường gặp của 1.500 mẫu sản phẩm từ sữa phụ nữ mang thai đang lưu hành tại 6 tỉnh/thành phố lớn. Kết quả được đối chiếu với Quyết định số 46/2007/QĐ-BYT, ngày 19/12/2007 của Bộ trưởng Bộ Y tế. Kết quả: Sản phẩm từ sữa dành cho phụ nữ mang thai đang lưu hành tại 6 tỉnh/thành phố có nguy cơ ô nhiễm cao nhất là phomat, chất béo và sữa lên men. Vi khuẩn nhiễm nhiều nhất là Listeria monocytogenes. Trong đó, có 6,00% mẫu phomat, 5,0% mẫu Cream dạng lỏng nhiễm E.coli. Có 2,22% mẫu Cream bột nhiễm Staphylococus aureus; 5,56% mẫu sữa bột, 3,0% mẫu phomat nhiễm Salmonella; có 3,33% mẫu bơ, và chất béo, 10,00% mẫu sữa lên men nhiễm Listeria monocytogenes. Kết luận: tình trạng ô nhiễm E.coli, Staphylococus aureus, Salmonella và Listeria monocytogenes vẫn còn xảy ra ở một số sản phẩm từ sữa dành cho phụ nữ mang thai, gây nguy cơ ngộ độc thực phẩm.
#ô nhiễm #vi sinh vật #sản phẩm từ sữa
Đánh giá mức độ ô nhiễm vi sinh vật trên thịt heo được bán ở một số chợ trên địa bàn Thành phố Huế
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp - Tập 7 Số 3 - Trang 3814-3821 - 2023
Nghiên cứu được thực hiện nhằm mục đích đánh giá mức độ nhiễm một số vi sinh vật trên thịt heo bán tại một số chợ thuộc thành phố Huế. Tổng số 60 mẫu thịt được dùng để phân tích mức độ ô nhiễm coliform, Escherichia coli (E. coli), Salmonella theo TCVN 9975 : 2013 và TCVN 10780-1:2017 ISO 6579-1:2017. Mẫu sau khi được xử lý, vi khuẩn coliform, Escherichia coli được xác định trên đĩa Petrifilm, vi khuẩn Salmonella được xác định bằng cách cấy trải trên môi trường XLD. Kết quả cho thấy, có 100% mẫu thịt heo bị nhiễm coliform, 88,33% mẫu  nhiễm E. coli và 50,00% mẫu nhiễm Salmonella. Số lượng coliform trung bình trong các mẫu là 5,87×104  CFU/g, cao gấp 587 lần so với tiêu chuẩn. Số lượng E. coli là 0,72×104 CFU/g, cao gấp 72 lần so với tiêu chuẩn cho phép. Khi xét cả 3 chỉ tiêu vi sinh vật thì 100% các mẫu đều không đạt tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm theo TCVN 7046:2009. Mức độ ô nhiễm vi sinh vật trong các mẫu ở các chợ là không tương đồng. Chợ Bến Ngự mặc dù có tỷ lệ nhiễm E. coli thấp nhất (80,00%), nhưng tỷ lệ nhiễm Salmonella cao nhất (60,00%). Như vậy, cần có các giải pháp đảm bảo vệ sinh an toàn thực phầm nhằm hạn chế mức độ ô nhiễm vi sinh vật trong thịt heo đang bán tại các chợ trên địa bàn thành phố Huế.
#Coliform #E. coli #Ô nhiễm vi sinh vật #Salmonella #Thịt heo
THỰC TRẠNG Ô NHIỄM MỘT SỐ TÁC NHÂN VI SINH VẬT TRONG SỮA VÀ SẢN PHẨM TỪ SỮA CHO TRẺ EM <36 THÁNG TUỔI TẠI VIỆT NAM 2019-2021
Mục tiêu: Xác định mức độ ô nhiễm một số tác nhân vi sinh vật trong sữa, sản phẩm từ sữa cho trẻdưới 36 tháng, năm 2019-2021.Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, lấy mẫu và xét nghiệm 4 chỉ tiêu vi sinhvật thường gặp của 1.500 mẫu sữa, sản phẩm từ sữa cho trẻ dưới 36 tháng đang lưu hành tại 6 tỉnh/thành phố lớn. Kết quả được đối chiếu với Quyết định số 46/2007/QĐ-BYT, ngày 19/12/2007 củaBộ trưởng Bộ Y tế.Kết quả: Sữa, sản phẩm từ sữa cho trẻ dưới 36 tháng tuổi có nguy cơ ô nhiễm vi sinh vật nhiều nhấtlà các chất béo từ sữa. Vi sinh vật bị nhiễm nhiều nhất là Listeria monocytogenes. E.coli: 13,33%mẫu Cream dạng lỏng; 11,11% mẫu bơ vượt ngưỡng giới hạn. Staphylococus aureus: 12,22% mẫuCream bột; 5,00% mẫu sữa bột gầy vượt ngưỡng giới hạn cho phép Salmonella: 6,33% mẫu phomat,8,33% mẫu Cream dạng lỏng; 8,88% mẫu bơ, 7,77% mẫu chất béo vượt ngưỡng giới hạn cho phép.Listeria monocytogenes: 5,00% mẫu Whey bột, 5,00% mẫu sữa cô đặc, 3,67% mẫu phomat, 6,67%mẫu bơ, 10,00% mẫu chất béo và 6,00% mẫu sản phẩm sữa lên men vượt ngưỡng giới hạn cho phép.Kết luận: Tình trạng ô nhiễm E.coli, Staphylococus aureus, Salmonella và Listeria monocytogenesvẫn còn xảy ra ở một số loại sữa và sản phẩm từ sữa dành cho trẻ em dưới 36 tháng tuổi, gây nguycơ ngộ độc thực phẩm đối với trẻ em.
#Ô nhiễm #vi sinh vật #sữa và sản phẩm từ sữa.
Tổng số: 11   
  • 1
  • 2